Điều 1.8 Dự thảo quy định: “2. Trái phiếu, trái phiếu đặc biệt được phát hành bằng VND và là trái phiếu không được chuyển nhượng.”
Điều 1.10 Dự thảo quy định:
“…2. Trách nhiệm của tổ chức tín dụng sở hữu trái phiếu, trái phiếu đặc biệt:
e) Không được chuyển nhượng trái phiếu cho tổ chức, cá nhân khác, ngoại trừ các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài .”
Như vậy, hai quy định này chưa thống nhất với nhau. Đề nghị quy định thống nhất theo hướng trái phiếu, trái phiếu đặc biệt là trái phiếu không được tự do chuyển nhượng trên thị trường, trừ trường hợp chuyển nhượng trên thị trường Liên Ngân hàng.
Đối với quy định tại:
Đối với quy định tại:
Điều 14.1.c.(ii) Thông tư 19/2013/TT-NHNN:
“Trái phiếu đặc biệt có thời hạn tối đa 05 năm. Trường hợp phát hành trái phiếu đặc biệt để mua nợ xấu của các tổ chức tín dụng đang thực hiện phương án tái cơ cấu hoặc gặp khó khăn về tài chính thì thời hạn của trái phiếu đặc biệt tối đa không quá 10 năm.”
Đối với Điều 1.11 Dự thảo
Điều 17a Thông tư 19/2013/TT-NHNN: Nên sửa đổi theo hướng chỉ áp dụng với trường hợp cần đề nghị thời hạn cụ thể của trái phiếu đặc biệt vượt quá 05 năm. Mặt khác, nên quy định TCTD được đề xuất thời hạn trái phiếu ngay từ thời điểm trước khi bán hoặc trong quá trình mua bán nợ để đảm bảo phù hợp với thực tế phát sinh vì thời hạn 5-10 năm có thể có nhiều thay đổi.
Điều 17a.3 Thông tư 19/2013/TT-NHNN: Nên quy định rõ các tiêu chí để xác định là TCTD gặp khó khăn về tài chính.
Đối với Điều 1.14 Dự thảo
Điều 14 Dự thảo sửa đổi Điều 27.4 Thông tư 19/2013/TT-NHNN về nguyên tắc cơ cấu lại khoản nợ xấu đã mua: Phải có cơ chế thông báo để TCTD cập nhật được thông tin cơ cấu nhằm theo dõi đôn đốc thu nợ và xác định tiền lãi phát sinh phục vụ công tác báo cáo nợ gốc, lãi định kỳ.
Đối với Điều 1.15 Dự thảo
Điều 15 Dự thảo sửa đổi Điều 8.4 Thông tư 19/2013/TT-NHNN về điều chỉnh lãi suất của các khoản nợ xấu đã mua: Cần quy định hình thức và thời gian của thông báo để có căn cứ và đảm bảo theo dõi kịp thời.
Đối với Điều 1.21 Dự thảo
Đề xuất sửa đổi, bổ sung Điều 1.21 Dự thảo theo hướng:
Đối với Điều 1.22 Dự thảo
Đề xuất sửa đổi/ bãi bỏ quy định tại Điều 22 Dự thảo do quy định này không phù hợp với quy định tại Nghị định 53/2013/NĐ – CP, được sửa đổi bởi Nghị định 34/2015/NĐ – CP (sau đây gọi tắt là NĐ 53 sđbs), cụ thể: theo quy định tại NĐ 53 sđbs chỉ quy định TCTD trích lập dự phòng rủi ro hàng năm đối với TPĐB theo hướng phải trích lập đủ trong thời hạn của trái phiếu đặc biệt, không quy định cụ thể mức trích hàng năm và cũng không quy định NHNN hướng dẫn nội dung này. Vì vậy, việc NHNN hướng dẫn việc trích lập hằng năm có dấu hiệu vi phạm quy định của NĐ 53 sđbs và bất lợi cho các TCTD.
Bổ sung quy định về ủy quyền khởi kiện các khoản nợ bán cho VAMC
Đối với quy định tại:
Đối với quy định tại:
Điều 14.1.c.(ii) Thông tư 19/2013/TT-NHNN:
“Trái phiếu đặc biệt có thời hạn tối đa 05 năm. Trường hợp phát hành trái phiếu đặc biệt để mua nợ xấu của các tổ chức tín dụng đang thực hiện phương án tái cơ cấu hoặc gặp khó khăn về tài chính thì thời hạn của trái phiếu đặc biệt tối đa không quá 10 năm.”
Thực tiễn, sau khi bán khoản nợ cho VAMC, TCTD vẫn tiếp tục thực hiện việc quản lý, thu hồi/ xử lý nợ theo ủy quyền của VAMC (đối với toàn bộ các khoản nợ đã bán). Tuy nhiên, trong quá trình khởi kiện tại Tòa án, một số Tòa không chấp nhận văn bản ủy quyền của VAMC cho TCTD mà yêu cầu phải có văn bản ủy quyền cho cá nhân cụ thể, xử lý đối với từng khoản nợ (của khách hàng cụ thể). Đối với các khoản nợ đang được khởi kiện tại Tòa án mà TCTD bán cho VAMC thì Tòa án đình chỉ việc giải quyết vụ kiện với lý do TCTD không còn quyền với khoản nợ nên không phải Nguyên đơn của vụ án.
Để tạo thuận lợi trong quá trình xử lý nợ, đề nghị NHNN ban hành quy định hướng dẫn/ mẫu văn bản ủy quyền của VAMC theo hướng:
Ngoài ra, đề nghị NHNN có văn bản thống nhất với TAND tối cao về việc hướng dẫn thụ lý, xét xử các vụ án có liên quan, trong trường hợp TCTD bán khoản nợ đang khởi kiện thì chỉ cần bổ sung văn bản ủy quyền của VAMC về việc tiếp tục thực hiện việc giải quyết tại Tòa án (khi đó, VAMC sẽ là Nguyên Đơn, TCTD là người đại diện theo ủy quyền và được ủy quyền có cá nhân khác trực tiếp thực hiện).