Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, trên cơ sở góp ý của doanh nghiệp, hiệp hội, có một số ý kiến như sau:
Tuy nhiên, ngoài khoản 3 Điều 4 là tương đối rõ ràng và tập trung, khoản 1 và khoản 2 Điều 4 cùng với khoản 2 Điều 5 Dự thảo dường như đang chồng lấn nhau (về phạm vi) và bất cập (về nội dung).
Quy định này là chưa rõ ràng và chưa thống nhất ở một số điểm sau:
+ Làm thế nào để xác định được đầy đủ các văn bản pháp luật đang có hiệu lực trước thời điểm có hiệu lực của Nghị định này? Và nếu không thể xác định được thì làm thế nào để khoanh vùng các dịch vụ, hàng hóa thuộc diện Nhà nước độc quyền? Và nếu như vậy thì mục tiêu của Nghị định (minh bạch các hàng hóa, dịch vụ độc quyền) có thực hiện được không?
+ Trường hợp có sự không thống nhất giữa các hàng hóa, dịch vụ độc quyền Nhà nước trong các văn bản nói trên với danh mục hàng hóa, dịch vụ độc quyền tại Nghị định này thì giải quyết như thế nào? Sẽ áp dụng theo quy định tại các văn bản pháp luật có quy định hay là áp dụng quy định tại Nghị định này? (Chú ý là về mặt nguyên tắc áp dụng pháp luật thì chỉ Nghị định này chỉ được ưu tiên áp dụng so với các Nghị định khác ban hành trước; còn các Luật, Pháp lệnh đã/sẽ ban hành và các Nghị định sẽ ban hành sau này sẽ được ưu tiên áp dụng so với Nghị định này);
+ Quy định cấm các Bộ, địa phương không được ban hành quy định về độc quyền Nhà nước trong Dự thảo chỉ có hiệu quả đối với các văn bản mà các cơ quan này ban hành nhằm thực hiện Luật Thương mại hoặc Nghị định này; trường hợp các cơ quan này (ví dụ Bộ) ban hành quy định về độc quyền Nhà nước nhằm thi hành các văn bản cấp cao hơn (như Luật, Pháp lệnh…) thì quy định này hầu như không có ý nghĩa[1].
Việc công khai, minh bạch các hàng hóa, dịch vụ mà Nhà nước đang độc quyền thương mại là cần thiết, nhằm đảm bảo sự minh bạch trong chính sách và khiến cho môi trường kinh doanh đầu tư ổn định.
Cũng với cùng mục tiêu minh bạch này, Nghị định 59/2006/NĐ-CP[2] trước đây đã ban hành được các Danh mục về hàng hóa, dịch vụ cấm, hạn chế và có điều kiện, tuy nhiên văn bản này dần rơi vào “quên lãng” và không phát huy được vai trò của mình, khi hầu hết các doanh nghiệp không dựa vào Nghị định 59 để xác định hàng hóa, dịch vụ có điều kiện hay không, cũng như các cơ quan nhà nước ban hành các văn bản cũng không dựa vào đó để xác định các biện pháp quản lý tương ứng đối với các hàng hóa, dịch vụ.
Để tránh Nghị định này đi vào “vết xe đổ” của Nghị định 59, cần xây dựng một cơ chế để vừa đảm bảo tính minh bạch (tất cả các hàng hóa, dịch vụ Nhà nước độc quyền được quy định tại một văn bản) và rà soát, bổ sung hoặc loại bỏ các hàng hóa, dịch vụ Nhà nước độc quyền.
Để giải quyết các vướng mắc trên, đề nghị Ban soạn thảo:
+ tiêu chí “thành phần kinh tế khác không có khả năng tham gia” – đây cũng không phải tiêu chí, bởi việc các thành phần kinh tế có thể tham gia hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có việc Nhà nước có cho phép các thành phần kinh tế khác tham gia không (nếu không cho phép thì họ không thể tham gia);
Mặt khác, hàng hóa, dịch vụ được lựa chọn theo phương thức đặt hàng, giao kế hoạch cùng thuộc một Danh mục mà không có sự phân chia hàng hóa, dịch vụ này chỉ được giao theo phương thức giao kế hoạch/đặt hàng. Do đó, việc xác định hàng hóa, dịch vụ theo trường hợp (3) trên là chưa chính xác.
Từ những phân tích trên, đề nghị Ban soạn thảo sửa đổi quy định về tiêu chí độc quyền nhà nước trong hoạt động thương mại theo hướng:
Theo kiến nghị ở trên thì Danh mục này nên được ban hành trong Luật Thương mại (sửa đổi) và nên có cơ chế đảm bảo thực thi như góp ý ở mục 1.
Danh mục trong Dự thảo không thấy có quy định về địa bàn thực hiện độc quyền nhà nước trong hoạt động thương mại, đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ về các địa bàn này, để đảm bảo yếu tố minh bạch.
[1] Chú ý: Quy định này chỉ có ý nghĩa nếu được điều chỉnh lại như sau “Bộ, cơ quan ngang Bộ… chỉ được ban hành quy định về đôc quyền Nhà nước nhằm cụ thể hóa, hướng dẫn thi hành các quy định về đôc quyền Nhà nước trong các văn bản cấp trên”.
[2] Nghị định 59/2006/NĐ-CP của Chính phủ ban hành về Danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, Danh mục hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh và Danh mục hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có điều kiện
[3] Nghị định 130/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 16/10/2013 về sản xuất, cung ứng dịch vụ công ích