Trang chủ Diễn đàn góp ý PL

Góp ý Dự thảo Nghị định quy định một số điều kiện đầu tư kinh doanh chứng khoán
27/07/2016 23:56' Gửi bài này In bài này
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, trên cơ sở ý kiến của doanh nghiệp, hiệp hội, có một số ý kiến như sau:

  1. Điều kiện cấp Giấy phép thành lập và hoạt động công ty chứng khoán (Điều 4)Theo quy định tại Điều 4 Dự thảo thì, công ty chứng khoán phải đáp ứng điều kiện là:
  •          Quyền sử dụng trụ sở công ty có thời hạn tối thiểu một (01) năm tính từ ngày hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép thành lập và hoạt động công ty chứng khoán đầy đủ và hợp lệ (điểm a khoản 1 Điều 4)
  •          Diện tích sàn giao dịch chứng khoán tại trụ sở chính của công ty chứng khoán có nghiệp vụ môi giới chứng khoán tối thiểu là 100 m2 (điểm b khoản 1 Điều 4)Quy định về các điều kiện trên là chưa hợp lý ở các điểm sau:
  •          Yêu cầu về thời hạn tối thiểu một năm cho quyền sử dụng trụ sở, có thể được hiểu nhằm mục đích đảm bảo tính ổn định trong hoạt động của công ty chứng khoán tuy nhiên, đây lại là quy định can thiệp sâu vào quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp. Quyền sử dụng trụ sở thường được thiết lập trên cơ sở hợp đồng, tự nguyện và tự thoả thuận, vì vậy thời hạn thuê không thể áp đặt “cứng” bằng một khoảng thời gian nào đó, mà còn tùy thuộc vào thỏa thuận của các bên trong hợp đồng và có thể thay đổi trong quá trình thực hiện khi những điều kiện thực hiện hợp đồng thay đổi. Hơn nữa, đứng dưới góc độ các mục tiêu quản lý trong lĩnh vực này, thì trụ sở không phải là yếu tố cốt lõi cần phải kiểm soát. Vì vậy, yêu cầu về thời hạn cố định tối thiểu của trụ sở của công ty chứng khoán là chưa phù hợp, đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc, xem xét bỏ yêu cầu này, tức là bỏ quy định tại điểm a khoản 1 Điều 4 Dự thảo.
  •          Yêu cầu diện tích tối thiểu về sàn giao dịch chứng khoán tại trụ sở dường như cũng chưa hợp lý. Ban soạn thảo chưa đưa ra giải trình thuyết phục về việc tại sao lại phải đáp ứng tối thiểu diện tích 100m2 mà không phải là con số khác? Và tại sao sàn giao dịch chứng khoán lại phải đáp ứng một diện tích tối thiểu như đề xuất tại Dự thảo thay vì chỉ cần có sàn giao dịch với diện tích phù hợp với hoạt động dịch vụ do doanh nghiệp cung cấp? Mặt khác, đối với các giao dịch chứng khoán, nhiều trường hợp nhà đầu tư không cần phải đến sàn giao dịch mới có thể thực hiện được các lệnh giao dịch, hay tìm hiểu được thông tin về các loại chứng khoán. Do đó, quy định cứng về diện tích tối thiểu của sàn giao dịch có căn cứ chưa vững chắc. Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo bỏ yêu cầu về diện tích tối thiểu 100m2 của sàn giao dịch chứng khoán và sửa đổi quy định theo hướng có diện tích sàn giao dịch phù hợp với hoạt động dịch vụ mà mình cung cấp.
  1. Đăng ký cung cấp các dịch vụ chứng khoán khác của tổ chức kinh doanh chứng khoán (Điều 6)Khoản 1, 2 Điều 6 Dự thảo quy định, Công ty chứng khoán có tối thiểu hai (02) nghiệp vụ môi giới và tự doanh chứng khoán được thực hiện giao dịch ký quỹ/ có đầy đủ các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán được cung cấp dịch vụ giao dịch trong ngày cho khách hàng sau khi báo cáo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước. Quy định này là chưa rõ về phương thức quản lý đối với hoạt động cung cấp các dịch vụ chứng khoán khác của tổ chức kinh doanh chứng khoán ở điểm:
  •          Dự thảo đang thiết kế hoạt động cung cấp các dịch vụ chứng khoán khác của tổ chức kinh doanh chứng khoán theo hướng phải đáp ứng những điều kiện nhất định và không phải cấp phép. Việc Dự thảo yêu cầu công ty chứng khoán phải “báo cáo” cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới được phép cung cấp các dịch vụ chứng khoán khác khiến cho hình thức quản lý đối với lĩnh vực này dễ biến thành hình thức xin phép, mặc dù có tên gọi là “báo cáo”.
  •          Dưới góc độ tính minh bạch, không rõ doanh nghiệp phải “báo cáo” nội dung gì với cơ quan có thẩm quyền? Nếu doanh nghiệp đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định nhưng chưa thực hiện báo cáo thì có được phép cung cấp các dịch vụ chứng khoán khác không, trong khi về bản chất, hành vi này không gây ảnh hưởng gì đến quyền lợi của các chủ thể có liên quan và cơ quan quản lý nhà nước có thể kiểm soát và/hoặc quản lý thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra.Từ những phân tích trên, đề nghị Ban soạn thảo bỏ yêu cầu phải báo cáo với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước quy định tại khoản 1, 2 Điều 6 Dự thảo.
  1. Điều kiện, hồ sơ, thủ tục thành lập chi nhánh tại Việt Nam của công ty chứng khoán nước ngoài (Điều 8)
  •          Hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép thành lập và hoạt động chi nhánh tại Việt Nam của tổ chức kinh doanh chứng khoán nước ngoàiTheo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 8 Dự thảo thì trong Hồ sơ phải có “Tài liệu xác nhận công ty mẹ đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 1 (các điều kiện để được thành lập chi nhánh tại Việt Nam của công ty chứng khoán nước ngoài)”, tuy nhiên Dự thảo không quy định rõ về chủ thể xác nhận công ty mẹ đáp ứng các điều kiện là ai? Điều này có thể gây khó khăn trên thực tế áp dụng, vì vậy đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ.
  •          Về con dấu:Khoản 5 Điều 8 Dự thảo quy định “Trong thời hạn ba mươi (30) ngày, kể từ ngày giấy phép thành lập và hoạt động chi nhánh có hiệu lực, công ty mẹ phải làm thủ tục xin cấp con dấu với cơ quan công an, công bố giấy phép thành lập và hoạt động chi nhánh trên một tờ báo viết hoặc báo điện tử được phép phát hành tại Việt Nam trong ba (03) số liên tiếp”.

    Theo Điều 44 Luật Doanh nghiệp thì “Doanh nghiệp có quyền quyết định về hình thức số lượng và nội dung con dấu của doanh nghiệp” và “trước khi sử dụng, doanh nghiệp có nghĩa vụ thông báo mẫu dấu với cơ quan đăng ký kinh doanh để đăng tải công khai trên  Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp”. Như vậy, quy định tại khoản 5 Điều 8 Dự thảo là chưa phù hợp với Luật Doanh nghiệp, đề nghị Ban soạn thảo điều chỉnh lại quy định này để đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống pháp luật.

    Tương ứng, đề nghị Ban soạn thảo bỏ khoản 6 Điều 8 “trong thời hạn mười lăm (15) ngày kể từ ngày khai trương hoạt động chi nhánh tại Việt Nam phải gửi Ủy ban Chứng khoán Nhà nước thông báo hoạt động của mình và các tài liệu xác thực tổ chức nước ngoài đã hoàn tất các thủ tục theo quy định tại khoản 5 Điều này”.

  1. Kinh doanh chứng khoán phái sinh

Hiện tại, Nghị định 42[1] điều chỉnh tất cả các hoạt động về chứng khoán phái sinh và thị trường chứng khoán phái sinh, trong đó có quy định về điều kiện kinh doanh, cung cấp dịch vụ bù trừ, thanh toán chứng khoán phái sinh của tổ chức kinh doanh chứng khoán.

Khoản 3, 4 Điều 6 Dự thảo quy định thêm về các điều kiện để được kinh doanh chứng khoán phái sinh trong khi bản thân Nghị định này không sửa đổi, bổ sung các quy định tại Nghị định 42. Điều này sẽ dẫn tới hiện tượng chồng lấn về quy định khi điều chỉnh về chứng khoán phái sinh và tạo ra sự thiếu rõ ràng cho các đối tượng điều chỉnh khi không biết nên áp dụng quy định tại Nghị định này hay Nghị định 42 khi kinh doanh chứng khoán phái sinh.

Vì vậy, để đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống pháp luật, đề nghị Ban soạn thảo bỏ các quy định về chứng khoán phái sinh tại Dự thảo, nếu có lý do để bổ sung thêm điều kiện về kinh doanh chứng khoán phái sinh thì đề nghị sửa đổi, bổ sung Nghị định 42.

Trên đây là một số ý kiến của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Nghị định quy định một số điều kiện đầu tư kinh doanh chứng khoán. Rất mong quý Cơ quan soạn thảo cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện.

Ngoài ra gửi kèm theo một số góp ý cụ thể về Dự thảo mà một số doanh nghiệp gửi cho Phòng Thương mại và Công nghiệp để Quý Cơ quan tham khảo.

Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan.



[1] Nghị định số 42/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 05/5/2015 về chứng khoán phái sinh và thị trường chứng khoán phái sinh

Các tin khác