Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, có một số ý kiến như sau:
Việc ban hành là văn bản quy định về thu hồi và xử lý thực phẩm không bảo đảm an toàn là rất cần thiết trong bối cảnh an toàn thực phẩm đang là vấn đề nổi cộm. Tuy nhiên, để đáp ứng được mục tiêu đặt ra, góp phần xử lý hiệu quả vấn nạn mất vệ sinh an toàn thực phẩm hiện nay, các biện pháp nêu trong văn bản này cần bảo đảm tính khả thi, minh bạch, cho phép xử lý triệt để các trường hợp vi phạm an toàn thực phẩm đồng thời tạo cơ chế phù hợp khuyến khích các chủ thể liên quan tự nguyện tuân thủ.
Rà soát Dự thảo cho thấy trong khi nhiều quy định tại Dự thảo đã đáp ứng được các yêu cầu nói trên, vẫn còn một số điểm bất cập cần được Ban soạn thảo cân nhắc, điều chỉnh:
Quy định này không sai nhưng thiếu rõ ràng, chưa tạo điều kiện cho việc thi hành. Ví dụ: thế nào là “sản phẩm không bảo đảm an toàn”? sản phẩm nào thì thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Y tế?
Tất nhiên, Dự thảo được ban hành để thực thi các quy định liên quan của Luật an toàn thực phẩm, và không nhất thiết phải nhắc lại các quy định của Luật nhưng trong trường hợp này, để tạo thuận lợi cho thực thi, nên nhắc lại hoặc ít nhất cũng cần viện dẫn tới quy định liên quan của Luật (điều này là đặc biệt quan trọng bởi phạm vi các chủ thể phải thực thi Dự thảo này là hàng triệu người kinh doanh ăn uống, không phải ai cũng có đủ kiến thức để kết hợp nhiều quy định trong nhiều văn bản và sau đó thực thi).
Hơn nữa, cần chú ý rằng Dự thảo này chỉ áp dụng cho việc thu hồi và xử lý sau thu hồi, như vậy diện áp dụng còn hẹp hơn nữa chứ không phải là tất cả các sản phẩm không bảo đảm an toàn thuộc phạm vi quản lý của Bộ Y tế (theo Điều 55 Luật An toàn thực phẩm thì không phải sản phẩm không bảo đảm an toàn nào cũng bị thu hồi, sản phẩm không bảo đảm an toàn chỉ bị thu hồi trong 06 trường hợp).
Vì vậy, để bảo đảm tính minh bạch, rõ ràng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi của hàng triệu chủ thể, đề nghị Ban soạn thảo sửa đổi Điều 1 Dự thảo theo hướng:
Trường hợp có giải trình thuyết phục về việc không cần thiết phải quy định rõ (thậm chí nhắc lại Luật An toàn thực phẩm) như trên mà người dân, người kinh doanh vẫn có thể biết và tuân thủ đầy đủ thì ít nhất cũng phải dẫn chiếu tới các quy định pháp luật tương ứng trong Luật và trong các Văn bản khác liên quan về 02 nội dung nói trên.
Mặc dù vậy, nội dung của Dự thảo không bổ sung được điểm gì mới hơn so với Điều 55.2 Luật An toàn thực phẩm, và vì vậy cũng không giúp hướng dẫn gì cho việc thi hành, đặc biệt liên quan tới hình thức thu hồi bắt buộc, ví dụ:
Vì vậy, để bảo đảm tính rõ ràng, đề nghị Ban soạn thảo điều chỉnh Điều 3 theo hướng làm rõ những trường hợp nào thì là hình thức tự nguyện, trường hợp nào thì áp dụng hình thức bắt buộc. Cụ thể:
“1. Thu hồi tự nguyện là hình thức thu hồi do tổ chức, cá nhân thực hiện xuất phát từ sáng kiến của tổ chức, cá nhân liên quan, thực hiện ngay khi tổ chức, cá nhân phát hiện sản phẩm thuộc các trường hợp sau đây:… (liệt kê các trường hợp nêu tại Điều 55.1 Luật an toàn thực phẩm ở đây)
2. Thu hồi bắt buộc là hình thức thu hồi do tổ chức, cá nhân thực hiện xuất phát từ yêu cầu của Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền sau khi Cơ quan này kiểm tra và ra kết luận sản phẩm của tổ chức, cá nhân thuộc trường hợp nêu tại Khoản 1 Điều này.
3. Cơ quan có thẩm quyền nêu tại khoản 2 Điều này và các Điều 4, 5 Thông tư này là…”
“1. Thu hồi tự nguyện là hình thức thu hồi do tổ chức, cá nhân thực hiện xuất phát từ sáng kiến của tổ chức, cá nhân liên quan, thực hiện ngay khi tổ chức, cá nhân phát hiện sản phẩm thuộc các trường hợp phải thu hồi theo quy định tại Điều 1 Thông tư này.
2. Thu hồi bắt buộc là hình thức thu hồi do tổ chức, cá nhân thực hiện xuất phát từ yêu cầu của Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền sau khi Cơ quan này kiểm tra và ra kết luận sản phẩm của tổ chức, cá nhân thuộc trường hợp thuộc Điều 1 Thông tư này.
3. Cơ quan có thẩm quyền nêu tại khoản 2 Điều này và các Điều 4, 5 Thông tư này là…”
2.2. Về hình thức thu hồi trong một số trường hợp đặc biệt:
Bên cạnh 02 hình thức thu hồi như nêu tại Điều 3 Dự thảo, theo Luật An toàn thực phẩm thì còn có 02 hình thức thu hồi khác, bao gồm:
Đây là hình thức thu hồi thực hiện trong trường hợp một trong hai hình thức thu hồi nói trong Điều 3 Dự thảo không được thực hiện. Và hình thức này là rất có ý nghĩa trong bối cảnh các tổ chức, cá nhân vi phạm hiện rất hiếm khi tự mình thực hiện việc thu hồi.
Tuy nhiên, Dự thảo lại chưa có hướng dẫn gì về hình thức cưỡng chế này: Ai thực hiện? bằng chi phí của ai? Thời gian (quá hạn tự thu hồi bao lâu thì tiến hành cưỡng chế thu hồi)? Cách thức thực hiện như thế nào?
Đây là hình thức thu hồi mà sáng kiến thu hồi cũng như việc triển khai thu hồi đều do Cơ quan quản lý Nhà nước thực hiện, tổ chức, cá nhân liên quan chỉ chịu chi phí cho việc thu hồi này. Như vậy hình thức này khác so với thu hồi tự nguyện và thu hồi bắt buộc nêu trong Điều 3. Và hình thức này chưa được hướng dẫn trong Dự thảo.
Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo bổ sung quy định hướng dẫn về 02 hình thức thu hồi này.
Quy định này chưa rõ ràng ở nhiều điểm:
Hơn nữa, ở bước này Điều 55.5 chỉ giới hạn quyền của Cơ quan có thẩm quyền trong việc quyết định “thời hạn hoàn thành việc thu hồi”, vì vậy, Cơ quan này, nếu có, chỉ có thể kết luận đạt hay không đạt về vấn đề thời hạn trong kế hoạch thu hồi của doanh nghiệp mà không có quyền kết luận về những vấn đề khác.
Trừ khi Dự thảo làm rõ thực phẩm thuộc phạm vi quản lý của Bộ Y tế là thực phẩm nào, quy định tại Dự thảo được hiểu là thực phẩm nói chung. Nếu theo nghĩa này thì theo khoản 2 Điều 3 Luật an toàn thực phẩm quy định người sản xuất, kinh doanh thực phẩm đều phải chịu trách nhiệm về an toàn đối với thực phẩm mình sản xuất, kinh doanh. Và như vậy thì quy định tại Điều 4 Dự thảo chưa rõ: khi một vụ việc mất an toàn thực phẩm xảy ra thì ai là người chịu trách nhiệm đầu tiên? Người sản xuất thực phẩm? Người kinh doanh thực phẩm?…
Do đó, đề nghị Ban soạn thảo:
Quy định này không làm rõ:
+ Chuyển đổi mục đích sử dụng là thế nào? Khi nào có thể chuyển đổi mục đích sử dụng (mà không phải là tiêu hủy hay tái xuất)? Khi chuyển đổi thì cần bảo đảm yêu cầu gì (ví dụ sản phẩm có phải đáp ứng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, yêu cầu an toàn thực phẩm áp dụng cho sản phẩm chuyển đổi không…? Chú ý là hiện tại không có quy định nào về chuyển đổi mục đích sử dụng của sản phẩm trong nước nói chung, thực phẩm nói riêng).
+ Cơ quan quản lý chuyên ngành là cơ quan nào? (có phải là Cơ quan chịu trách nhiệm quản lý đối với sản phẩm được chuyển đổi không? Thực phẩm thì có thể chuyển đổi thành sản phẩm nào – nếu chỉ là chuyển thành thức ăn chăn nuôi thì nêu rõ luôn Cơ quan chịu trách nhiệm là cơ quan nông nghiệp?)
+ Căn cứ nào để Cơ quan quản lý chuyên ngành chấp thuận hay không chấp thuận việc chuyển đổi mục đích sử dụng của sản phẩm không bảo đảm an toàn Vì vậy, cách thức thực hiện phương thức xử lý sản phẩm không an toàn bằng cách “chuyển mục đích sử dụng” gần như là phụ thuộc hoàn toàn vào ý kiến chủ quan của cơ quan quản lý chuyên ngành.
+ Trình tự thủ tục, thời hạn để phê duyệt việc chuyển đổi mục đích sử dụng này là như thế nào?
Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo bổ sung quy định hướng dẫn cụ thể về việc giám sát thu hồi này (khi nào phải giám sát, giám sát như thế nào, kết quả của việc giám sát là gì?…)
Dự thảo quy định trong thời hạn 3 ngày tổ chức, cá nhân phải báo cáo bằng văn bản về việc thu hồi, xử lý.
Quy định này được hiểu là tổ chức, cá nhân chỉ báo cáo về kết quả thu hồi, xử lý là hoàn tất, cơ quan có thẩm quyền sẽ không kiểm tra, cũng không giám sát việc thu hồi có thực hiện đúng yêu cầu không?
Nếu chỉ dừng lại ở việc này thì liệu Dự thảo này có mang lại hiệu quả thực tế để giải quyết các vấn đề nổi cộm về an toàn thực phẩm của thức ăn đường phố hiện nay không?
Trên đây là một số ý kiến ban đầu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Thông tư quy định việc thu hồi và xử lý thực phẩm không an toàn thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Y tế. Rất mong quý Cơ quan soạn thảo cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện.
Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan.