Trang chủ Diễn đàn góp ý PL

Góp ý Dự thảo Nghị định quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa của tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
25/07/2016 22:15' Gửi bài này In bài này

Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, trên cơ sở ý kiến của doanh nghiệp, hiệp hội, có một số ý kiến như sau:

Nghị định này có nhiều quy định liên quan đến điều kiện và thủ tục cấp phép kinh doanh, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, các quy định cần cụ thể, rõ ràng, nhất quán và hợp lý. Rà soát Dự thảo còn một số quy định chưa đảm bảo được yêu cầu trên, đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc, xem xét để hoàn thiện, cụ thể:

  1. Một số quy định chưa đảm bảo tính thống nhất
  1. Các trường hợp không phải làm thủ tục cấp Giấy phép kinh doanh, Giấy phép lập cơ sở bán buôn, Giấy phép lập cơ sở bán lẻĐiểm b khoản 2 Điều 5 Dự thảo quy định “Tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 23 Luật Đầu tư chỉ thực hiện quyền xuất khẩu, quyền nhập khẩu, quyền phân phối bán buôn (không gắn với thành lập cơ sở bán buôn) các hàng hóa phù hợp với lộ trình do Bộ Công Thương công bố” thuộc trường hợp không phải làm thủ tục cấp Giấy phép kinh doanh, Giấy phép lập cơ sở bán buôn, Giấy phép lập cơ sở bán lẻ.Trong khi đó, theo Luật Đầu tư thì nhà đầu tư nước ngoài thuộc diện quy định tại khoản 2 Điều 23 Luật Đầu tư được áp dụng các điều kiện và thủ tục đầu tư như nhà đầu tư trong nước. Do đó, việc Dự thảo quy định điều kiện/thủ tục riêng cho nhà đầu tư nước ngoài trong trường hợp này mà không phải là áp dụng điều kiện/thủ tục thông thường như nhà đầu tư trong nước là chưa phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 23 Luật Đầu tư.

    Để đảm bảo thống nhất với quy định tại Luật Đầu tư, đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc, xem xét điều chỉnh lại quy định tại điểm b khoản 2 Điều 5 Dự thảo theo hướng, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 23 Luật đầu tư thực hiện theo quy định áp dụng cho nhà đầu tư trong nước (tức là bỏ cụm từ “chỉ thực hiện quyền xuất khẩu, quyền nhập khẩu, quyền phân phối bán buôn (không gắn với thành lập cơ sở bán buôn) các loại hàng hóa phù hợp với lộ trình do Bộ Công Thương công bố”).

  2. Hồ sơ cấp Giấy phép lập cơ sở bán buôn, Giấy phép lập cơ sở bán lẻ Khoản 6 Điều 8 Dự thảo quy định “trường hợp cơ sở bán lẻ phải thực hiện thủ tục kiểm tra nhu cầu kinh tế, tổ chức kinh tế chỉ được ký hợp đồng xây dựng hoặc thuê, cải tạo cơ sở bán lẻ sau khi được cấp Giấy phép lập cơ sở bán lẻ”, đồng nghĩa với việc, tại thời điểm thực hiện thủ tục để xin cấp Giấy phép lập cơ sở bán lẻ, doanh nghiệp không được ký hợp đồng xây dựng hoặc thuê, cải tạo cơ sở bán lẻ, tức là chưa xác định địa điểm cụ thể của cơ sở bán lẻ.Trong khi đó, theo quy định tại khoản 2 Điều 28 Dự thảo thì trong hồ sơ cấp Giấy phép lập cơ sở bán lẻ phải có “Bản sao biên bản ghi nhớ hoặc thỏa thuận thuê địa điểm hoặc bản sao tài liệu chứng minh tổ chức kinh tế có quyền khai thác, sử dụng địa điểm để thực hiện hoạt động bán lẻ”. Quy định này được hiểu là tại thời điểm thực hiện thủ tục xin cấp phép lập cơ sở bán lẻ, doanh nghiệp đã phải có hợp đồng thuê địa điểm hoặc xác định chính xác địa điểm sẽ lập cơ sở bán lẻ.

    Như vậy, giữa hai quy định này đang có sự thiếu thống nhất trong việc yêu cầu xác định thời điểm tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phải ký kết hợp đồng thuê và hoặc xác định chính xác địa điểm lập cơ sở bán lẻ.

    Xét về tính hợp lý, tránh rủi ro cho doanh nghiệp, quy định tại khoản 6 Điều 8 Dự thảo là phù hợp hơn, vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo bỏ yêu cầu phải có tài liệu về địa điểm dự kiến đặt cơ sở bán lẻ trong Hồ sơ xin cấp phép, tức là bỏ quy định tại khoản 2 Điều 28 Dự thảo.

  3. Thời điểm thành lập Hội đồng kiểm tra nhu cầu kinh tếTheo quy định tại Điều 28 thì trong Hồ sơ cấp phép lập cơ sở bán buôn, cơ sở bán lẻ, doanh nghiệp phải cung cấp “Văn bản thông qua kết quả làm việc của Hội đồng kiểm tra nhu cầu kinh tế” (khoản 6), điều này đồng nghĩa với việc doanh nghiệp phải thực hiện một thủ tục trước đó để có được văn bản thông qua kết quả làm việc của Hội đồng kiểm tra nhu cầu kinh tế.Tuy nhiên, trong trình tự, thủ tục cấp Giấy phép lập cơ sở bán buôn, Giấy phép lập cơ sở bán lẻ quy định tại khoản 4 Điều 29 Dự thảo thì, khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ, cơ quan cấp phép sẽ tổ chức Họp Hội đồng kiểm tra nhu cầu kinh tế và Hội đồng này sẽ cho ý kiến về việc lập cơ sở bán lẻ của tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Như vậy, theo quy định này thì Hội đồng kiểm tra nhu cầu kinh tế sẽ có ý kiến sau khi nhận được hồ sơ xin cấp phép lập cơ sở bán buôn, bán lẻ. Và trong Hồ sơ xin cấp phép doanh nghiệp không thể có được “văn bản thông qua kết quả làm việc của Hội đồng kiểm tra nhu cầu kinh tế”.

    Như vậy, giữa các quy định tại Điều 28, 29 đang có sự mâu thuẫn về thời điểm thành lập và có ý kiến của Hội đồng kiểm tra nhu cầu kinh tế.

    Để đảm bảo tính minh bạch và thống nhất, đề nghị Ban soạn thảo bỏ yêu cầu phải có “văn bản thông qua kết quả làm việc của Hội đồng kiểm tra nhu cầu kinh tế” trong Hồ sơ xin cấp phép lập cơ sở bán buôn, cơ sở bán lẻ, tức là bỏ quy định tại khoản 6 Điều 28 Dự thảo.

  1. Một số quy định chưa đảm bảo tính minh bạch
  1. Điều kiện để được cấp Giấy phép kinh doanh và các ngoại lệĐiều 6 Dự thảo quy định về các điều kiện để tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được cấp Giấy phép kinh doanh. Điều này được hiểu là các tổ chức có vốn đầu tư nước ngoài muốn được cấp Giấy phép kinh doanh phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện quy định tại Điều 6.Tuy nhiên, theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 11 Dự thảo thì Bộ Công Thương sẽ cho ý kiến đối với các trường hợp:
  •          Nhà đầu tư nước ngoài của tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài không thuộc các quốc gia, vùng lãnh thổ có tham gia điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên;
  •          Tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đề nghị cấp Giấy phép kinh doanh để hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa không phù hợp với lộ trình hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa của tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài do Bộ Công Thương công bốHai trường hợp này nằm ngoài các điều kiện quy định tại  khoản 1, 2[1] Điều 6 Dự thảo.. Việc Bộ Công thương vẫn xem xét cho ý kiến với các trường hợp này theo đồng nghĩa với việc tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có thể không cần phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện tại khoản 1,2 Điều 6 mà vẫn có thể được cấp giấy phép. Nói cách khác, với 02 trường hợp này, điều kiện cấp phép sẽ là riêng, không nằm chung trong điều kiện tại Điều 6 Dự thảo.Tuy nhiên, Dự thảo lại không quy định về các tiêu chí để cơ quan nhà nước cân nhắc, xem xét trong các trường hợp ngoại lệ này (tức là không quy định các điều kiện cấp phép đối với 02 trường hợp này). Điều này khiến cho quy định trở nên thiếu minh bạch và có nguy cơ tạo ra sự phân biệt đối xử giữa các chủ thể trong cùng điều kiện.

    Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo bổ sung quy định làm rõ các điều kiện, tiêu chí cấp phép trong 02 trường hợp này.

    1. Hồ sơ cấp Giấy phép kinh doanh (Điều 15)Điều 15 Dự thảo quy định hồ sơ cấp Giấy giấy phép kinh doanh phải có các loại tài liệu sau:
  •          (1) Tài liệu chứng minh năng lực tài chính của tổ chức kinh tế trong việc thực hiện hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa (khoản 3);
  •          (2) Bản giải trình và các tài liệu chứng minh địa điểm dự kiến đặt cơ sở bán buôn, cơ sở bán lẻ đáp ứng điều kiện phù hợp với quy hoạch có liên quan của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ướng nơi dự kiến đặt cơ sở bán buôn, cơ sở bán lẻ (trường hợp tổ chức kinh tế đề nghị cấp Giấy phép kinh doanh gắn với lập cơ sở bán buôn thứ nhất, cơ sở bán lẻ thứ nhất) (khoản 5)Quy định trên vừa chưa rõ ràng vừa chưa hợp lý ở điểm:
  •          Không rõ tài liệu nào chứng minh năng lực tài chính của tổ chức kinh tế?Theo quy định tại khoản 5 Điều 6 về điều kiện để được cấp Giấy phép kinh doanh, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phải “có nguồn tài chính đảm bảo hoạt động kinh doanh” và+ “đối với trường hợp tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài mới thành lập dưới 01 năm, nguồn tài chính được xác định trên cơ sở vốn điều lệ đối với công ty, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, vốn đầu tư đối với doanh nghiệp tư nhân hoặc vốn kinh doanh đối với các tổ chức khác thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh” (điểm a khoản 5 Điều 6): Đối với trường hợp này thì Giấy chứng nhận đăng ký tổ chức kinh tế (có ghi rõ vốn điều lệ) mà doanh nghiệp đã phải nộp trong Hồ sơ đã đủ để chứng minh yêu cầu này rồi. Việc yêu cầu chứng mình thêm ở đây là không cần thiết. Do đó, đề nghị Ban soạn thảo bỏ yêu cầu tại khoản 3 Điều 15 (về tài liệu chứng minh năng lực tài chính) đối với trường hợp tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài mới thành lập dưới 01 năm.

    + “đối với trường hợp tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã thành lập từ 01 năm trở lên, ngoài nguồn tài chính được xác định tại điểm a khoản 5 Điều 6, nguồn tài chính còn được đánh giá thông qua việc thực hiện nghĩa vụ thuế thu nhập doanh n ghiệp và các nghĩa vụ thuế, tài chính khác với Nhà nước Việt Nam”: Đối với trường hợp này, trên thực tế có thể có rất nhiều loại tài liệu liên quan tới các nghĩa vụ nộp thuế của doanh nghiệp. Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ các tài liệu nào trong trường hợp này để đảm bảo cách hiểu thống nhất cũng như thuận lợi cho việc triển khai trên thực tế.

  •          Yêu cầu doanh nghiệp phải cung cấp bản giải trình và các tài liệu chứng minh địa điểm dự kiến đặt cơ sở bán buôn, cơ sở bán lẻ phù hợp với quy hoạch là chưa tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, bởi cơ quan nhà nước có thể tự đánh giá được yếu tố này dựa vào thông tin về địa điểm mà doanh nghiệp dự định thực hiện hoạt động bán buôn, bán lẻ cung cấp trong hồ sơ với bản quy hoạch do cơ quan quản lý nhà nước ban hành. Và đây thực chất là công việc xét duyệt (xem xét tính phù hợp quy hoạch của hồ sơ) của chính cơ quan Nhà nước liên quan.Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc bỏ yêu cầu phải có tài liệu này trong hồ sơ, tức là bỏ quy định “Bản giải trình và các tài liệu chứng minh địa điểm dự kiến đặt cơ sở bán buôn, cơ sở bán lẻ đáp ứng điều kiện phù hợp với quy hoạch có liên quan của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi dự kiến đặt cơ sở bán buôn, cơ sở bán lẻ (trường hợp tổ chức kinh tế đề nghị cấp Giấy phép kinh doanh gắn với lập cơ sở bán buôn thứ nhất, cơ sở bán lẻ thứ nhất)” tại khoản 5 Điều 15 Dự thảo.
    1. Thủ tục cấp Giấy phép kinh doanh trực tuyến (Điều 16)Theo quy định tại khoản 1 Điều 16 Dự thảo thì doanh nghiệp có thể nộp hồ sơ xin cấp phép bằng phương thức “trực tuyến (nếu đủ điều kiện áp dụng)”. Tuy nhiên, Dự thảo lại không có quy định nào về thủ tục trực tuyến cũng như các điều kiện để doanh nghiệp có thể áp dụng phương thức này. Đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ về thủ tục trực tuyến trong cấp giấy phép kinh doanh.Góp ý tương tự đối với thủ tục điều chỉnh giấy phép kinh doanh quy định tại khoản 2 Điều 21 Dự thảo.
    2. Thời hạn Giấy phép lập cơ sở bán buôn, Giấy phép lập cơ sở bán lẻĐiểm a khoản 2 Điều 17 Dự thảo quy định “Giấy phép kinh doanh có thời hạn 05 năm. Bộ Công Thương có thể xem xét, quyết định cho phép thời hạn Giấy phép kinh doanh dài hơn tùy từng trường hợp cụ thể”.Điểm a khoản 2 Điều 30 Dự thảo quy định “Giấy phép lập cơ sở bán buôn, Giấy phép lập cơ sở bán lẻ có thời hạn 5 năm nhưng không vượt quá thời hạn còn lại trên Giấy phép kinh doanh của tổ chức kinh tế. Bộ Công Thương có thể xem xét, quyết định cho phép thời hạn Giấy phép lập cơ sở bán buôn, Giấy phép lập cơ sở bán lẻ dài hơn tùy từng trường hợp cụ thể”.

      Như vậy, ở cả hai trường hợp nói trên, Dự thảo đều quy định Bộ Công thương có thẩm quyền quyết định kéo dài thời hạn các Giấy phép quá 05 năm tùy trường hợp cụ thể. Mặc dù vậy, Dự thảo không có bất kỳ quy định nào về các trường hợp có thể kéo dài thời hạn, cũng không quy định về các tiêu chí để Bộ Công thương căn cứ vào đó quyết định cho phép kéo dài thời hạn hay không. Việc thiếu các quy định như vậy có thể tạo ra nguy cơ phân biệt đối xử giữa các đối tượng trong cùng điều kiện.

      Ngoài ra, cần chú ý là đối với trường hợp Giấy phép lập cơ sở bán buôn, bán lẻ, về logic, quyết định kéo dài thời hạn Giấy phép trong mọi trường hợp sẽ không thể vượt quá thời hạn còn lại trên Giấy phép kinh doanh (bởi trong các trường hợp này, Giấy phép kinh doanh là “giấy phép mẹ”, là căn cứ để cấp Giấy phép lập cơ sở bán lẻ/bán buôn – “giấy phép con”; do đó thời hạn “giấy phép con” không thể dài hơn thời hạn còn lại của “giấy phép mẹ”). Và vì vậy. điều này cũng cần phải được quy định rõ trong các tiêu chí xác định kéo dài thời hạn của Giấy phép con quá 05 năm.

      Từ những phân tích trên, đề nghị Ban soạn thảo nếu vẫn giữ quy định về việc kéo dài thời hạn Giấy phép quá 05 năm thì phải (i) quy định rõ các trường hợp, tiêu chí kéo dài thời hạn và (ii) thời gian kéo dài tối đa, trong đó nhấn mạnh yếu tố thời hạn của Giấy phép lập cơ sở bán buôn/bán lẻ trong mọi trường hợp không được vượt quá thời hạn còn lại của Giấy phép kinh doanh.

    3. Các trường hợp không cấp giấy phép

Điều 18, 31 Dự thảo quy định các trường hợp không cấp Giấy phép kinh doanh, Giấy phép lập cơ sở bán buôn, Giấy phép lập cơ sở bán lẻ. Các quy định này sẽ giúp các đối tượng áp dụng nhận diện được các trường hợp không được cấp giấy phép và thể hiện tính chất minh bạch trong quy trình thủ tục cấp phép. Tuy nhiên, bên cạnh việc quy định cụ thể các trường hợp không được cấp phép, các Điều này lại có quy định dạng quét là “các trường hợp khác theo quy định của pháp luật”.

Mặc dù quy định “quét” này để bao quát hết các trường hợp mà Dự thảo này chưa liệt kê, nhưng đứng dưới góc độ của doanh nghiệp thì quy định này chưa đảm bảo tính minh bạch. Bởi, họ sẽ không biết những trường hợp nào khác nữa sẽ không được cấp phép và tạo ra sự thiếu minh bạch trong chính sách. Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo bỏ các quy định này tại Điều 18, 31 Dự thảo.

Trên đây là một số ý kiến của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Nghị định quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa của tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Rất mong quý Cơ quan soạn thảo cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện.

Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan.

 


[1] “Tổ chức kinh tế có nhà đầu tư nước ngoài thuộc các nước, vùng lãnh thổ tham gia điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và trong điều ước quốc tế đó Việt Nam có cam kết mở cửa thị trường về hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan” (khoản 1 Điều 6)

“Đáp ứng điều kiện hạn chế tiếp cận thị trường quy định tại Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên” (khoản 2 Điều 6)