Trang chủ Diễn đàn góp ý PL

Góp ý của VCCI về Dự thảo Luật về hội
25/03/2016 22:12' Gửi bài này In bài này
  1. Quan điểm tiếp cận

Việc xây dựng và ban hành Luật về Hội là cần thiết, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội hiện tại và nhằm khắc phục những hạn chế của khung khổ pháp luật hiện hành.

Cụ thể, trong nhiều năm qua, các tổ chức hội ở nước ta đã có sự phát triển mạnh mẽ cả về chất và lượng. Các tổ chức này, dù dưới các tên gọi khác nhau như hội, hiệp hội, tổng hội, liên đoàn, hiệp hội, câu lạc bộ…, nhưng đều đang tham gia rộng rãi vào đời sống xã hội, có vai trò tích cực trong phát triển kinh tế, thúc đẩy các mục tiêu xã hội quan trọng (xóa đói giảm nghèo, tăng cường bình đẳng giới và bảo vệ môi trường …), đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế-xã hội bền vững của đất nước.

Tuy nhiên, khung pháp luật hiện hành điều chỉnh hoạt động của các tổ chức hội của Việt Nam vẫn chưa đầy đủ và hoàn thiện và do đó còn tạo ra những hạn chế đối với sự phát triển hiệu quả của các tổ chức này, đặc biệt là:

–               Các chính sách khuyến khích hỗ trợ các tổ chức hội tham gia vào các công tác xã hội còn thiếu đồng bộ;Các quy định pháp luật về chức năng giám sát và phản biện xã hội của các tổ chức hội, một trong những yếu tố đảm bảo mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cũng chưa được cụ thể.

–               Việc phối hợp phân công, phân cấp quản lý hội chưa được xác định rõ. Những quy định về trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước đối với các tổ chức hội  còn  thiếu  cụ  thể,  nên  khó  thực  hiện,  do  đó  chưa  phát  huy  hết  vai  trò, trách nhiệm của bộ, ngành, địa phương trong việc tạo điều kiện để hội hoạt động đúng hướng, có hiệu quả;

–               Việc chuyển  giaomột số nhiệm vụ mang tính chất dịch vụ công từ Nhà nước cho các tổ chức hội chưa nhiều.

Một Luật về Hội phù hợp và đáp ứng nhu cầu thực tiễn có thể khơi dậy tinh thần tự nguyện và khích lệ rất nhiều các tổ chức hội, vốn được thành lập vì mục tiêu phi lợi nhuận và phục vụ lợi ích cộng đồng, huy động đóng góp của các người dân, tham gia hỗ trợ nhà nước trong việc cung ứng các hàng hóa/dịch vụ công, khắc phục những khuyết tật của thị trường và nhà nước, để từ đó tạo ra sự phát triển kinh tế-xã hội bền vững tại Việt Nam trong thời gian tới.

Từ góc độ pháp luật, việc xây dựng và ban hành Luật về Hội cũng là để thể chế hóa quyền tự do lập hội đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 (Điều 25).

Tuy nhiên, để văn bản ban hành có thể đáp ứng những yêu cầu đặt ra, các quy định của Dự thảo cần phải đảm bảo những vấn đề chính sau:

–         Dự thảo Luật về Hội cần thể hiện rõ mục tiêu quan trọng là tạo dựng môi trường pháp lý thuận lợi để đáp ứng nhu cầu về quyền lập hội của người dân, để các hội phát huy được vai trò của mình, cùng với nhà nước và thị trường, xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội một cách bền vững tại Việt Nam. Do vậy, dự thảo cần quy định theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho các hội thành lập và hoạt động.

–         Dự thảo Luật về Hội cần xác định các tổ chức hội chính là đối tác của Nhà nước, cùng với doanh nghiệp và người dânchung tay vì sự phát triển kinh tế-xã hội chung của đất nước. Để làm được điều này, trong Dự thảo cần quy định rõ ràng về chức năng giám sát, phản biện xã hội của các tổ chức hội. Bên cạnh đó cũng cần quy định về việc chuyển giao  một số  nhiệm  vụ của  nhà  nước  mang tính chất dịch vụ công cho các tổ chức hội đảm nhận.

–         Dự thảo Luật về Hội cần có một chương riêng về các hội/hiệp hội doanh nghiệp hoặc trong khi Luật về Hội chưa ban hành, thì việc ban hành một nghị định riêng về hội/hiệp hội doanh nghiệp là rất cần thiết.

Trên thực tế các hội/hiệp hội doanh nghiệp dù mới ra đời và phát triển từ khi Việt Nam tiến hành Đổi mới năm 1986, nhưng đã có đóng góp quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp tại Việt Nam, đặc biệt là trong các hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư, chắp mối cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp. Các hội/hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam cũng đang có nhiều đóng góp tích cực cho Nhà nước trong việc phát hiện những bất cập của hệ thống pháp luật kinh doanh, hỗ trợ Nhà nước hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam trong thời gian qua.

–         Cuối cùng, sự phát triển của các tổ chức hội cần trên nền tảng của nhà nước pháp quyền, mà tại Việt Nam, đó là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Các tổ chức hội hoạt động tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, vì lợi ích chung của xã hội, trên tinh thần xây dựng là hết sức cần thiết để đảm bảo sự phát triển của xã hội. Bên cạnh đó, những tổ chức hội vận hành hiệu quả, có khả năng kiểm tra, giám sát, phối hợp với nhà nước trong việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế và góp phần vào việc xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

 

  1. Góp ý cụ thể:

Trên cơ sở quan điểm tiếp cận nêu trên, rà soát Dự thảo Luật về Hội cho thấy còn một số vấn đề sau cần được Ban soạn thảo cân nhắc, điều chỉnh cho phù hợp, đáp ứng đúng yêu cầu đối với Dự thảo Luật.

  1. Về quy trình thành lập Hội
  2. Về ban vận động thành lập Hội (Điều 10)

Theo quy định tại khoản 1 Điều 10 Dự thảo thì trước khi thành lập Hội, các cá nhân, tổ chức phải thành lập Ban vận động thành lập hội và Ban này phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận.

Quy định này là vừa chưa hợp lý vừa thiếu minh bạch ở các điểm:

–         Tính hợp lý: Nhà nước chỉ cần quản lý việc thành lập Hội thông quacác điều kiện thành lập là đủ. Tổ chức nào đáp ứng các điều kiện thành lập thì được phép thành lập và ngược lại. Từ góc độ này,việc kiểm soát quá trình trước khi thành lập Hội (bắt buộc phải có ban vận động và ban vận động phải được công nhân) là không cần thiết (bởi ngay cả khi tuân thủ đúng quy trình về ban vận động thì cũng không có nghĩa là tổ chức đó đáp ứng điều kiện thành lập Hội; cũng như vậy, việc công nhận hay không công nhân ban vận đồng này cũng không phải là đảm bảo rằng tổ chức đó đáp ứng các điều kiện về Hội)?

Từ góc độ thực tiễn, dù có hay không có Ban vận động, các cá nhân, tổ chức muốn thành lập Hội cũng sẽ thực hiện các công việc cần thiết để xin phép thành lập Hội chứ không nhất thiết các cá nhân đó phải thành lập một Ban mới có thể thực hiện được các thủ tục theo quy định.

–         Tính minh bạch:Ngay cả khi việc kiểm soát ban vận động thành lập Hội là cần thiết và có ý nghĩa đối với việc kiểm soát các điều kiện của Hội thì Dự thảo hiện cũng chưa quy địnhrõ ràng về việc kiểm soát này:

+ Tiêu chí cụ thể nào để cơ quan nhà nước có thẩm quyền dựa vào khi ra quyết định công nhận hay không công nhận Ban vận động thành lập hội?

+ Trình tự thủ tục để công nhận Ban vận động thành lập hội này như thế nào?+ Thời gian mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải ra quyết định công nhận/không công nhận Ban vận động thành lập hội là bao nhiêu ngày kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị?

Các nội dung này nếu không được làm rõ thì sẽ rất dễ dẫn tới sự tùy tiện trong việc áp dụng và ảnh hưởng trực tiếp đến các quy định khác của Dự thảo(Ví dụ: Nếu như không chấp thuận Ban vận động thì đương nhiên Hội sẽ không được thành lập, trong khi chưa xem xét đến các điều kiện để thành lập Hội quy định tại Điều 9, điều này là trái với các quy định tại chính Dự thảo này).

Từ những phân tích trên, đề nghị Ban soạn thảo:

–         Bỏ quy định về việc bắt buộc thành lập ban vận động (có thể thành lập hoặc không)

–         Trường hợp vẫn cần thiết phải kiếm soát ban vận động thì đề nghịchuyển thủ tục “công nhận ban vận động thành lập hội”(mang tính xin phép)tại Điều 10 thành thủ tục “thông báo”. Hiệu quả quản lý nhà nước vẫn đạt được khi thiết kế điều này theo hướng công dân, tổ chức Việt Nam thông báo tới cơ quan nhà nước có thẩm quyền, chứ không phải là xin cấp phép công nhận ban vận động thành lập hội. Cơ quan quan quản lý nhà nước cũng chỉ cần tập trung vào thủ tục đăng ký thành lập hội. Quy định này cũng giúp giảm bớt thủ tục hành chính, giảm tải cho các cơ quan quản lý trong công tác quản lý hội.

  1. Về công nhận chức danh người đứng đầu Hội (Điều 13)

Dự thảo hiện quy định chức danh người đứng đầu Hội phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận.

Từ góc độ pháp lý, quy định này dường như có thể xung đột với nguyên tắc “tự nguyện, tự quản” đang được xác lập đối với cơ chế quản lý Hội mà chính Dự thảo đặt ra.

Từ góc độ thực tế, nếu mục tiêu của quy định này là nhằmgiải quyết tình trạng tranh chấp nội bộ của Hội về việc bầu chức danh này, thì chưa chắc đã đạt được khi chưa có tổng kết thực tiễn của việc thực hiện Nghị định 45 về vấn đề này.

Từ góc độ quản lý, việc lựa chọn người đứng đầu Hội trên thực tế Nhà nước hoàn toàn có thể kiểm soát được qua việc xem xét Dự thảo Điều lệ của Hội trong hồ sơ đăng ký thành lập hội hoặc hồ sơ xin phép Đại hội.

Vì vậy,đề nghị Ban soạn thảođiều chỉnh quy định tại Khoản 3 và 4 Điều 13 theo hướng các Hội gửi thông báo tới cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về kết quả đại hội thành lập hội, điều lệ và người đứng đầu hội.

 

  1. Về tổ chức, quản lý Hội
  2. Hội viên của Hội (Điều 15)

Theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 15 Dự thảo thì doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài thành lập và hoạt động tại Việt Nam (gọi tắt là doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài) đủ tiêu chuẩn hội viên chính thức có thể trở thành hội viên chính thức của hội có phạm vi hoạt động có phạm vi hoạt động cả nước hoặc liên tỉnh và hội có phạm vi hoạt động trong tỉnh.

Đây là quy định rất phù hợp với nguyện vọng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam hiện nay.

Theo Khảo sát gần 1.500 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) tại Việt Nam do VCCI tiến hành năm 2014, hiện nay khoảng 32% doanh nghiệp FDI có tham gia các phòng thương mại/hội/hiệp hội/câu lạc bộ của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Kết quả khảo sát cho thấy có tới 53% doanh nghiệp FDI mong muốn được trở thành hội viên của các hiệp hội doanh nghiệp trong nước. Việc tham gia của các doanh nghiệp FDI vào các hiệp hội doanh nghiệp trong nước có thể giúp các hiệp hội trong nước nâng cao năng lực quản lý, điều hành hiệp hội, cũng như có thể giúp nâng cao năng lực chuyên môn của hiệp hội trong phục vụ hội viên. (Chú ý là Dự thảo cần đưa ra khái niệm chính xác về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tương thích với quy định tại Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư và cầnsử dụng thống nhất khái niệm này trong toàn bộ Dự thảo).

Tuy nhiên, Dự thảo cũng quy định doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được là thành viên của Hội nhưng phải cử “người đại diện là công dân Việt Nam” tham gia Hội.Quy định này không rõ về mục tiêu quản lý và dường như đang là can thiệp quá mức cần thiết vào hoạt động của Hội. Trên thực tế, dù doanh nghiệp FDI cử đại diện là người Việt Nam hay người nước ngoài thì người đại diện này cũng sẽ chịu sự chi phối của doanh nghiệp về quan điểm khi tham gia vào Hội. Hơn nữa, bản thân các doanh nghiệp này cũng đã được kiểm soát bằng các điều kiện là Hội viên của Hội quy định tại Điều 15 Dự thảo, cũng như việc quy định cụ thể việc tham gia các hoạt động của hội theo điều lệ, ví dụ như ngôn ngữ làm việc, của hội đã quy định.

Ngoài ra, việc điểm c khoản 2 Điều 15 quy định “Hội được kết nạp doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài làm hội viên chính thức do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 14 Luật này quyết định” cũng chưa được rõ ràng. Liệu quy định có được hiểu là mỗi khi có doanh nghiệp FDI nộp hồ sơ xin trở thành hội viên chính thức của hội, thì hội sẽ phải xin cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền chấp thuận?Nếu đúng như vậy, thì đây sẽ là một thủ tục hành chính đòi hỏi phải có quy trình thủ tục cụ thể và cả các tiêu chí cụ thể làm căn cứ để cơ quan Nhà nước chấp thuận hay không chấp thuận. Hơn thế, thủ tục này cũng sẽ làm tăng gánh nặng tuân thủ cho các hội, cũng như làm chính các cơ quan quản lý nhà nước bị quá tải trong xử lý công việc này.

Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo bỏ quy định “doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài cử người đại diện là công dân Việt Nam tham gia hội” tại điểm c khoản 2 Điều 15. Việc kết nạp các doanh nghiệp FDI thành hội viên chính thức của hội chỉ cần được điều chỉnh bằng Điều lệ của Hội đã được cơ quan quản lý nhà nước phê chuẩn, mà không cần thiết trở thành một thủ tục xin chấp thuận từ phía cơ quan quản lý nhà nước cho việc kết nạp hội viên như trong Dự thảo quy định hiện nay.

  1. Về Đại hội (Điều 20)

Khoản 6 Điều 20 Dự thảo quy định, trước khi Đại hội, Ban lãnh đạo Hội phải thông báo bằng văn bản về việc tổ chức Đại hội cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền và chỉ được tổ chức Đại hội khi được cơ quan nhà nước có ý kiến chấp thuận.

Quy định này là chưa hợp lý, bởi việc tổ chức đại hội là để giải quyết các vấn đề liên quan đến hoạt động của Hội được quy định tại Điều lệ cũng như pháp luật.Nói cách khác, tổ chức Đại hội là hoạt động có tính chất nội bộ của Hội và đã được Nhà nước kiểm soát thông qua Điều lệ và pháp luật về Hội rồi, do đó Nhà nước không cần thiết phải quyết định cho phép trong từng trường hợp cụ thể nữa. Hơn nữa, xét về mặt nguồn lực, hiện nay trên cả nước có rất nhiều Hội hoạt động, nếu Đại hội nào của Hội cũng phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét chấp thuận thì liệu Nhà nước có đủ nguồn lực để thực hiện không.

Mặt khác, về tính minh bạch, quy định này cũng thiếu rõ ràng ở cácđiểm sau:

–         Thời hạn cho cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền phải có ý kiến chấp thuận là bao nhiêu ngày?

–         Thông báo của Hội về việc tổ chức đại hội gồm những thông tin, văn bản cụ thể gì?

–         Cơ quan quản lý nhà nước dựa vào tiêu chí nào để chấp thuận hoặc từ chối Hội tiến hành đại hội? Các hệ quả pháp lý của việc từ chối cho Hội tiến hành Đại hội sẽ được xử lý như thế nào (ví dụ trường hợp cơ quan nhà nước từ chối cho phép Đại hội, Hội sẽ không có lãnh đạo mới trong khi lãnh đạo cũ đã hết nhiệm kỳ, vậy khoảng trống này sẽ giải quyết như thế nào về hoạt động của Hội?)

Quy định như hiện tại tại Khoản 6 Điều 20 về việc tổ chức đại hội của Hội hiện chưa hợp lý và minh bạch. Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảoquy định rõ về trình tự, thủ tục của quy định này. Việc thiết kế quy định này theo hướng là thông báo thay vì xin cấp phép sẽ tạo thuận lợi hơn cho các hội hoạt động, cũng như giúp giảm tải trong công tác quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

  1. Quyền tham gia ý kiến vào văn bản quy phạm pháp luật(Khoản 8 Điều 24):

Khoản 8 Điều 24 Dự thảo quy định Hội có quyền “tham gia ý kiến vào các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến nội dung hoạt động của hộitheo quy định của pháp luật”.

Tuy nhiên, theo quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, việc tham gia góp ý các văn bản quy phạm pháp luật không giới hạn về đối tượng góp ý. Tất cả các chủ thể có thể góp ý đối với mọi văn bản quy phạm pháp luật mà không giới hạn là quy định trong văn bản đó có tác động trực tiếp và/hoặc gián tiếp đến mình hay không. Không chỉ đóng góp ý kiến với văn bản quy phạm pháp luật, việc mở rộng cho các hội tham gia góp ý đối với các chính sách, dự án lớn về phát triển kinh tế-xã hội cũng là rất cần thiết.

Do đó, việc giới hạn hội chỉ được góp ý “liên quan đến nội dung hoạt động của hội” là bó hẹp phạm vi tham gia ý kiến của Hội. Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo:

–         Bỏ quy định trên (sẽ áp dụng quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật) hoặc

–         Sửa đổi quy định tại khoản 8 Điều 20 theo hướng “tham gia ý kiến vào chính sách và các văn bản quy phạm pháp luật theo quy định của pháp luật”.

  1. Quyền ký kết, thực hiện thỏa thuận quốc tế (Khoản 12 Điều 24)

Khoản 12 Điều 24 Dự thảo quy định “Hội có phạm vi hoạt động cả nước hoặc liên tỉnh được gia nhập các tổ chức quốc tế tương ứng và ký kết, thực hiện thỏa thuận quốc tế theo quy định của pháp luật”. Quy định này giới hạn đối tượng chỉ là các hội có phạm vi hoạt động cả nước hoặc liên tỉnh, trong khi những hội ở cấp tỉnh thì không được phép.

Trên thực tế, một số hiệp hội doanh nghiệp tại các tỉnh biên giới để thực hiện nhiệm vụ, vai trò của mình trong việc kết nối, xúc tiến thương mại, đầu tư cho hội viên cần có thỏa thuận, hợp tác với các hiệp hội doanh nghiệp với tỉnh của nước lân cận.

Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảođiều chỉnh quy định này theo hướng bổ sung thêm nhóm các hiệp hội doanh nghiệp cấp tỉnh vào nhóm Hội được ký kết, thỏa thuận quốc tế theo quy định của pháp luật.

  1. Việc quản lý nhà nước đối với hội (Khoản 2 Điều 25):

Khoản 2 Điều 25 quy định “hội hoạt động thuộc lĩnh vực nào phải chịu sự quản lý nhà nước của cơ quan quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực đó”.

Quy định này có một số điểm bất cập:

–         Về tính khả thi: Trong khi quy định này tương đối phù hợp với những hội hoạt động đơn ngành, trong lĩnh vực cụ thể, không rõ đối với các hiệp hộiđa ngành(ví dụ hiệp hội doanh nghiệp cấp tỉnh, hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa…) thì sẽ chịu sự quản lý của cơ quan nào?

–         Về tính minh bạch: Không rõ Hội sẽ “chịu sự quản lý” theo hướng như thế nào của cơ quan chuyên ngành?

Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo bỏ quy địnhnày. Nếu có thể giải trình rõ về sự cần thiết phải giữ lại thì cần bổ sung quy định chi tiết, làm rõ ít nhất hai vấn đề:

–         Cơ quan nào quản lý các Hội đa ngành? và

–         Quản lý của cơ quan chuyên ngành được thực hiện như thế nào? Bao gồm những nội dung gì?

  1. Báo cáo khi có thay đổi chức vụ lãnh đạo hội, thay đổi trụ sở (Khoản 3 Điều 25)

Khoản 3 Điều 25 quy định “Khi thay đổi chức vụ lãnh đạo hội, thay đổi trụ sở, hội phải báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 14 Luật này và cơ quan quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực chính mà hội hoạt động”.

Tương tự như góp ý ở trên, không rõ đối với trường hợp Hội đa ngành (không có ngành nào là chính) thì Cơ quan quản lý ngành sẽ là cơ quan nào?

Đề nghị Ban soạn thảobỏ quy định báo cáo cho cơ quan quản lý ngành. Trường hợp vẫn giữ quy định này thì cần làm rõ là quy định chỉ áp dụng đối với Hội đơn ngành.

  1. Chia tách, sáp nhập, hợp nhất hội (Điều 26):

Điều 26 quy định về việc chia (bị chia), sáp nhập (bị sáp nhập) hợp nhất (bị hợp nhất)  ở hai trường hợp:hội tự nguyện thực hiện hoặc cơ quan nhà nước yêu cầu. Dự thảo giao cho Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

Tuy nhiên, từ góc độ thực tiễn, đây là những vấn đề rất quan trọng đối với các Hội, ảnh hưởng trực tiếp tới sự tồn tại và tư cách pháp lý của Hội.Vì vậy, ít nhất là những nội dung cơ bản, mang tính nguyên tắc về tiêu chí, trình tự, thủ tục cho việc này phải được quy định ngay trong Luật này.

Do đó, đề nghị Ban soạn thảobổ sung vào Dự thảo quy định vềcác vấn đề cơ bảnliên quan tớicác tiêu chí, trình tự thủ tục đối với việc chia, sáp nhập và hợp nhất hội.

  1. Tạm đình chỉ khi vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý tài sản, tài chính (Điểm g Khoản 1 Điều 27):

Dự thảo đưa ra nhiều trường hợp tạm đình chỉ hoạt động của Hội, trong đó có trường hợp tạm đình chỉ khi vi phạm quy định pháp luật về quản lý tài sản, tài chính. Quy định về vấn đề này tại Dự thảo hiện còn khá chung chung và có thể dẫn tới những bất cập lớn trong quá trình áp dụng: ví dụ vi phạm các quy định pháp luật về quản lý tài sản, tài chính của hội ở mức nào (nghiêm trong hay không nghiêm trọng, khả năng khắc phục tới đâu…) thì bị tạm đình chỉ (về logic thì chỉ nên đình chỉ trong trường hợp vi phạm đó là nghiêm trọng và hội không thể khắc phục được).

Vì vậy,đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ về trường hợp tạm đình này theo hướng chỉ khi hội có vi phạm nghiêm trọng các quy định của pháp luật về quản lý tài sản, tài chính, đồng thời cần quy định chi tiết vi phạm quy định pháp luật nào là nghiêm trọng trong việc quản lý tài sản, tài chính của hội.

  1. Giải thể hội (Điều 27):

Khoản 4 Điều 27 Dự thảo quy định các trường hợp hội bị giải thể.

Tại điểm b quy định hội bị giải thể nếu “trong thời gian bị tạm đình chỉ hội tiếp tục vi phạm”.Việc quy định như hiện tại là chưa rõ ràng, ít nhất ở các điểm:

–         Vi phạm ở đây là vi phạm gì (có liên quan tới vi phạm là lý do khiến Hội bị tạm đình chỉ hay bất kỳ vi phạm nào?)

–         Vi phạm ở mức nào? (có cần là vi phạm nghiêm trọng không hay mọi vi phạm lớn nhỏ đều sẽ là căn cứ cho việc giải thể Hội)

Điểm g của Điều này quy định trường hợp bị giải thể nếu “hoạt động của hội vi phạm pháp luật, điều lệ hội nghiêm trọng”. Tuy nhiên, Dự thảo chưa có định nghĩa thế nào là vi phạm pháp luật, điều lệ hội nghiêm trọng.

Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo:

–         Quy định rõ phạm vi, mức độ vi phạm tại điểm b khoản 4 điều 27 và

–         Quy định cụ thể về “vi phạm pháp luật, điều lệ hội nghiêm trọng” tại điểm g khoản 4 điều 27.

 

  1. Một số vấn đề khác
  2. Đăng ký thành lập Hội (Điều 11):

+ Điểm đ khoản 1 Điều 11 Dự thảo quy định trong Hồ sơ đăng ký thành lập hội phải có “Văn bản chứng minh quyền sử dụng hợp pháp nơi dự kiến đặt trụ sở của hội”.

Đề nghị Ban soạn thảo quy định cụ thể văn bản chứng minh quyền sử dụng hợp pháp ở đây là các văn bản nào (cần quy định rõ là Hợp đồng thuê nhà/ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) để đảm bảo thuận lợi khi thực hiện.

Ngoài ra, cần chú ý là tại thời điểm đăng ký thành lập Hội, Hội chưa có tư cách pháp lý nên những văn bản như thế này chỉ có thể ký dưới tên của cá nhân vận động thành lập Hội. Và vì vậy cần thiết phải có quy định về việc chuyển giao quyền và nghĩa vụ trong những văn bản này từ cá nhân liên quan sang Hội sau khi Hội được thành lập.

+ Điểm e khoản 1 Điều 11 Dự thảo quy định trong Hồ sơ phải có “văn bản đóng góp tài sản (nếu có) và tài liệu chứng minh”. Tài liệu này không thể hiện hình thức của bất kì điều kiện nào quy định tại Điều 9 Dự thảo, do đó đề nghị Ban soạn thảo bỏ loại giấy tờ này.

  1. Thẩm quyền quyết định của Đại hội về tài chính (Điều 20):

Điểm e khoản 5 Điều 20 Dự thảo quy định thẩm quyền quyết định của Đại hội về “tài chính của hội”. Đây là khái niệm quá rộng và do đó sẽ dẫn đến các bất cập, khó khăn trong hoạt động của Hội như: bất kì vấn đề gì liên quan đến tài chính (các chi phí thường xuyên, các khoản chi nhỏ lẻ, …) cũng phải “chờ” Đại hội quyết định, trong khi Đại hội lại được tổ chức theo nhiệm kỳ hoặc bất thường và thủ tục tổ chức đại hội không hề đơn giản.

Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo quy định về những vấn đề tài chính nào cần có sự quyết định của Đại hội, vấn đề nào thì Ban lãnh đạo có thể quyết định.

Trên đây là  ý kiến đóng góp của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam về Dự thảo Luật về Hội. Rất mong Quý Cơ quan cân nhắc điều chỉnh Dự thảo nếu phù hợp.

Trân trọng cảm ơn.